Có một câu nói vui rằng: Nếu đứng từ đỉnh Namsan mà ném một viên đá vào giữa trung tâm thủ đô Seoul thì thế nào viên đá đó cũng trúng vào người mang không họ Kim thì cũng là họ Lee.

Theo dữ liệu thống kê năm 2015, ở Hàn Quốc có 5 họ phổ biến nhất là:

  1. 김 – Kim – 金 (10.069.000 người)
  2. 이- Lý – 李 (7.307.00 người)
  3. 박- Phác – 朴 (4.192.000 người)
  4. 최- Thôi – 崔 (2.334.000 người)
  5. 정- Trịnh – 鄭 (2.152.000 người)

Như vậy có thể thấy những người mang họ Kim chiếm hơn 21% trong tổng số 50 triệu dân ở Hàn Quốc. Đứng thứ 2 về mức phổ độ biến là họ Lee (14,7%), với các cách phát âm, phiên âm khác gồm Yi, Rhee, Ree, Rey, Rhie. Họ Park (Phác) đứng thứ ba với 8,4% với các biến thể Park, Pak, Bark, Pack, Pak, Bak hoặc Bac.

Nếu tính tổng thì chỉ riêng 3 họ Kim, Lee và Park đã chiếm gần 1/2 dân số Hàn Quốc ngày nay.

Những bí mật về họ của người Hàn Quốc

Ở Việt Nam, họ Kim rất hiếm gặp (trừ những người Bắc Hàn tại Việt Nam) vì đây là dòng họ có nguồn gốc ở vùng Đông Bắc Trung Quốc giáp với Bắc Hàn và Viễn Đông Nga.

Một số người Việt mang họ Kim có lẽ trong số đó từ xưa tổ tiên có mối liên hệ họ hàng hay sui gia với người Hán hay người Triều Tiên mặc dù sổ sách đều không nói đến vấn đề này.

Đối với Trung Quốc hay Đài Loan, họ Kim cũng rất ít biết đến vì người Trung Quốc luôn nghĩ rằng họ Kim cũng gặp nhiều đối với người Mãn Châu và một trong số đó di cư xuống nam để làm ăn.

10 họ phổ biến nhất ở Hàn Quốc:

Những bí mật về họ của người Hàn Quốc

20 họ phổ biến nhất ở Hàn Quốc:

  1. 김 – Kim – 金
  2. 이 – Lý – 李
  3. 박 – Phác – 朴
  4. 최 – Thôi – 崔
  5. 정 – Trịnh – 鄭
  6. 강 – Khương – 姜
  7. 조 – Triệu – 趙
  8. 윤 – Doãn – 尹
  9. 장 – Trương – 張
  10. 임 – Lâm – 林
  11. 오 – Ngô – 吳
  12. 한 – Hàn – 韓
  13. 신 – Thân – 申
  14. 서 – Từ – 徐 –
  15. 권 – Quyền – 權
  16. 황 – Huỳnh/Hoàng – 黃
  17. 안 – An – 安
  18. 송 – Tống – 宋
  19. 류 – Liễu – 柳
  20. 홍 – Hồng – 洪

7 Điều cấm kị trong văn hóa Hàn Quốc không nên làm

Bản quán và gia tộc:

Để phân biệt huyết thống và nguồn gốc các dòng họ, người Hàn Quốc đưa ra khái niệm bản quán. Khi hỏi họ, người Hàn Quốc sẽ hỏi luôn cả bản quán để xác định gia tộc, họ hàng.

Mỗi họ sẽ đi kèm các bản quán khác nhau. Như họ Kim (金) ở Hàn Quốc có khoảng 350 bản quán còn tồn tại. Theo thống kê nhân khẩu học Hàn Quốc năm 2015, bản quán lớn nhất là Kim Hải.

Danh sách 5 bản quán lớn tại Hàn Quốc:

  1. Họ Kim gốc Kim Hải (Kim Hae)
  2. Họ Park gốc Mật Dương (Millyang)
  3. Họ Lee gốc Toàn Châu (Jeonju)
  4. Họ Kim gốc Khánh Châu (Gyeongju)
  5. Họ Lee gốc Khánh Châu (Gyeongju)

Họ từng là căn cứ phân biệt giai cấp

Truyền thống phong kiến lâu đời của Triều Tiên (bao gồm Hàn Quốc và Bắc Hàn) chứa đựng một phần câu trả lời. Cũng như ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, việc đặt họ ở Hàn Quốc là rất hiếm cho đến cuối triều đại Joseon (1392-1910).

Tên họ vẫn chỉ là đặc quyền của hoàng gia và một vài quý tộc (yangban) mà thôi. Không chỉ nô lệ và những tầng lớp thấp kém như như người bán thịt, pháp sư và gái mại dâm, mà cả các các nghệ nhân, thương nhân, nhà tu hành, cũng không có quyền sở hữu tên họ.

Khi tầng lớp quý tộc địa phương bày tỏ mong muốn được sở hữu một tên họ riêng, Wang Geon, vị vua sáng lập triều đại Goryeo (918-1392), đã có động thái cho phép cấp tên họ như là một cách để phân biệt các đối tượng trung thành và các quan chức trong triều đình.

Gwageo, tên một cuộc kiểm tra dân sự-dịch vụ (civil-service) được tổ chức, nhằm phân biệt các tầng lớp tiến bộ trong xã hội và có liên quan đến hoàng gia, những người này đều phải đăng ký một tên họ. Từ đó, các gia đình thuộc tầng lớp thượng lưu sở hữu họ riêng. Các thương gia giàu có cũng mong muốn sở hữu tên họ riêng cho mình, họ có thể mua một cuốn sách gia phả (jokbo) – có thể là của một yangban bị phá sản, sau đó sử dụng tên họ của quý tộc đó.

Vào cuối thế kỷ 18, việc mua bán gia phả đã diễn ra tràn lan. Khi đó một người không liên quan đến dòng dõi quý tộc vẫn có thể dễ dàng trả tiền để được điền tên vào gia phả. Những người vô danh lần lượt được sở hữu một tên họ cao quý.

Kim và Lee là 2 trong số những tên họ được sử dụng phổ biến trong hoàng gia của triều đại Joseon. Hai họ này được giới tinh hoa địa phương ưa thích lựa chọn và sau đó, lan rộng ra cả giới thường dân.

Những họ này có nguồn gốc từ Trung Quốc, được sử dụng trong tầng lớp lãnh đạo và giới quý tộc vào thế kỷ thứ 7. Nhiều tên họ ở Triều Tiên được hình thành từ một ký tự có xuất xứ từ Trung Quốc.

Vì vậy, để phân biệt dòng dõi khác nhau giữa những người có cùng họ, nơi xuất xứ của một gia tộc (bongwan) thường được gắn liền với tên họ. Họ Kim có khoảng 300 gia tộc riêng biệt, chẳng hạn như gia tộc Kim Gyeongju và Kim Gimhae (Tuy nhiên cũng khó có thể xác định được nguồn gốc chính xác thực sự của các gia tộc).

Sự hạn chế về tên họ dẫn tới việc người dân không chắc chắn về mối quan hệ máu mủ giữa những người mang họ giống nhau. Vì vậy, trong thời kỳ hậu Joseon, nhà vua đã thi hành một lệnh cấm hôn nhân giữa những người có bongwan giống hệt nhau (luật lệ này chỉ mới được dỡ bỏ từ năm 1997).

Vào năm 1894, việc bãi bỏ hệ thống xã hội dựa trên tầng lớp của triều đại Joseon cho phép dân thường có thể đăng ký một tên họ. Những người có địa vị xã hội thấp thường sử dụng tên của chủ nhà hoặc chủ đất, hoặc chỉ đơn giản là một trong những họ được sử dụng phổ biến. Năm 1909, một đạo luật mới được thông qua, yêu cầu tất cả người dân đều phải đăng ký một tên họ riêng.

Ngày nay, nguồn gốc dòng họ – một thời từng được coi là một dấu hiệu cho biết địa vị xã hội của một người, không còn quan trọng đối với người Hàn Quốc nữa.

Tuy nhiên, công dân nước ngoài, bao gồm cả Trung Quốc, Việt Nam và Philippines, khi được chấp nhận trở thành công dân nhập tịch Hàn Quốc, đa số vẫn lựa chọn sử dụng họ Kim, Lee, Park và Choi, theo số liệu của chính phủ. Ví dụ, gia tộc Kim Mongol (Mông Cổ), hoặc gia tộc Park Taeguk (Thái Lan).

Cùng họ không được kết hôn?

Ở Hàn Quốc đúng là trước đây không cho những người cùng họ kết hôn, gọi là 동성동본 (同姓同本), tức là “Đồng tính (danh tính), đồng bổn (gốc rễ).

Ví dụ như những người mang họ Kim đến từ 282 gia tộc, phần lớn họ thuộc các vùng Gyeongsang và Gyeongju. Theo đó, những người họ Kim của gia tộc Gimhae có thể lấy bất kỳ người họ Kim nào của gia tộc Gyeongju nhưng sẽ bị cấm kết hôn với những người mang họ Kim thuộc cùng gia tộc Gimhae.

Luật cấm những người cùng họ kết hôn tồn tại từ thời Joseon, có nguồn gốc từ đạo Khổng, với mục đích bảo toàn sự trong trắng trong mối quan hệ họ hàng. Họ sợ rằng người cùng họ sẽ có mối quan hệ máu mủ không biết trước được, vì vậy tốt nhất là không nên cưới nhau để đảm bảo trong sạch tuyệt đối.

Luật cấm này được chính thức đưa vào trong luật Dân sự Hàn Quốc gọi là Điều 809 năm 1960.

Trong 3 năm 1987, 1988, 1996, luật này được dỡ bỏ tạm thời và ước tính có khoảng 200.000 cặp vợ chồng kết hôn trong giai đoạn đó). Trong bộ phim truyền hình Reply 1988 (응답하라 1988), Seong Woo và Bora nhà ta cũng may mắn gặp đúng năm được dỡ bỏ tạm thời luật cấm kết hôn cùng họ nên mới được gia đình hai bên đồng ý.

Đến năm 2005, điều 809 được dỡ bỏ hoàn toàn và các cặp đôi của cùng gia tộc có thể kết hôn một cách hợp pháp, miễn là họ không cùng huyết thống.

XEM THÊM: 20 Đặc trưng văn hóa của Hàn Quốc

Những bí mật về họ của người Hàn Quốc

One thought on “Bí mật về tên họ của người Hàn Quốc – Tại sao Kim, Lee & Park nhiều thế?

  1. Khách viết:

    2.5

Trả lời

Địa chỉ email của bạn sẽ được giữ bí mật. Bắt buộc phải điền vào các ô có dấu sao (*).